Mario Molina là nhà khoa học và nhà nghiên cứu xuất sắc người Mexico trong lĩnh vực hóa học. Đây là nhà khoa học Mexico đầu tiên được trao giải Nobel cho những khám phá khoa học trong lĩnh vực hóa học.
Molina nhanh chóng được công nhận trong giới khoa học thế giới. Trong nhiều năm sự nghiệp của mình, ông đã giữ các vị trí giảng dạy và nghiên cứu danh dự không chỉ tại các trường đại học và học viện ở Mexico mà còn ở Châu Âu, Châu Mỹ và Canada. Ngoài ra, ông còn được giao vị trí cố vấn khí hậu và vị trí lãnh đạo tại Trung tâm Môi trường Mexico.
Những năm đầu
Mario Molina sinh ngày 19 tháng 3 năm 1943 tại thủ đô Mexico City của Mexico. Mẹ của anh, Lenore Henrico de Molina, làm quản lý công việc gia đình. Cha Roberto Molina Pasquel lần đầu hành nghề luật và sau đó trở thành nhà ngoại giao. Ông đã nhiều lần được bổ nhiệm làm đại sứ tại Philippines, Australia và Ethiopia.
Molina tốt nghiệp tiểu học tại một trường học ở Mexico. Ông bắt đầu tỏ ra rất quan tâm đến khoa học hóa học ngay từ khi còn nhỏ. Ông sử dụng phòng tắm trong nhà làm phòng thí nghiệm nghiên cứu đầu tiên của mình. Ông đã sử dụng bộ đồ chơi hóa học và kính hiển vi dành cho trẻ em làm công cụ thí nghiệm của mình.
Dì của anh, Esther Molina, người làm việc như một nhà hóa học, nhận thấy sự khao khát kiến thức khoa học của cậu bé Mario, luôn giúp đỡ anh thực hiện những thí nghiệm phức tạp nhất, giải thích đầy đủ các sắc thái và bản chất của chúng.
Năm 11 tuổi, Mario quyết định nghiêm túc nghiên cứu môn hóa học. Cha mẹ anh đã gửi anh đến một trường nội trú ở Thụy Sĩ. Ở đó, ông tự học tiếng Đức.
Từ khi còn nhỏ, Mario đã mơ ước trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm, nhưng theo thời gian, sở thích của anh thay đổi theo hướng thiên về hóa học.
Con đường dẫn đến sự nghiệp thành công
Khi học tại trường đại học, Mario Molina liên tục tham gia vào nhiều dự án thí nghiệm khoa học khác nhau. Ví dụ, ông là thành viên của nhóm làm sáng tỏ động lực học phân tử bằng cách sử dụng bức xạ laser hóa học. Molina cũng nghiên cứu các đặc tính của năng lượng bên trong của môi trường phát sinh từ các phản ứng hóa học.
Khi học tại Đại học California, ông thường tham gia các dự án nghiên cứu chung với thầy của mình, giáo sư nổi tiếng George C. Pimentel. Qua nhiều năm, niềm đam mê hóa học của Mario cuối cùng đã được củng cố.
Năm 1973, ông được trao bằng tiến sĩ về hạng mục hóa lý. Ông là thành viên của nhóm nghiên cứu Đại học Berkeley, đứng đầu là Sherwood Rowland.
Nhóm của họ đang thực hiện một dự án liên quan đến việc tiến hành các thí nghiệm để xác định tác động của chlorofluorocarbons (CFC) đối với môi trường và khí quyển. Kết quả của những nghiên cứu này là một khám phá khoa học quan trọng đã được thực hiện.
Từ năm 1974 đến 2004, Mario Molina không chỉ giảng dạy mà còn lãnh đạo nhiều tổ chức nghiên cứu khác nhau. Ông giữ các vị trí cấp cao tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực và Viện Công nghệ California và Massachusetts.
Molina vào Đại học California (San Diego) thuộc Khoa Hóa sinh và Hóa học năm 2004. Đồng thời, anh đang theo học tại Viện Nghiên cứu Hải dương học (Scripps).
Sau khi hoàn thành việc học tại các cơ sở này, ông được đề nghị đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong khoa nghiên cứu hóa học của Đại học California (San Diego) – hành tinh và khí quyển mặt đất. Ông đứng đầu cả hai khoa này.
Năm 2000, Molina được ghi danh vào Học viện Giáo hoàng khoa học. Ông cùng với các nhà khoa học Zaelke và Ramanathan đã chuẩn bị một báo cáo về tình trạng biến đổi khí hậu nghiêm trọng trên hành tinh. Nó vạch ra kế hoạch 12 điểm cho một giải pháp khả thi nhằm giảm thiểu tác động liên quan đến sự thay đổi mạnh mẽ của điều kiện khí hậu toàn cầu.
Năm 2005, Mario Molina thành lập Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Năng lượng của Định hướng Chiến lược. Anh ấy trở thành giám đốc của nó. Tổ chức này hiện mang tên ông.
Ngoài ra, vào năm 2000-2005. Mario Molina được bổ nhiệm vào ban quản trị của Xã hội và Khoa học.
Giữa năm 2004 và 2011. Ông phục vụ trong Ban Giám đốc của Quỹ MacArthur về Chính sách Thể chế và An ninh Toàn cầu.
Năm 2008, Mario Molina tham gia một nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ chuyên giải quyết các vấn đề môi trường.
Molina cũng tham gia thí nghiệm để xác định tầm quan trọng của việc bắt buộc sử dụng khẩu trang y tế trong đại dịch SARS-COV-2 và đề xuất giải pháp của riêng mình cho vấn đề này. Bài báo của ông báo cáo kết quả của những nghiên cứu này đã được đăng trên nhiều tạp chí khoa học thế giới.
Công trình nghiên cứu về chlorofluorocarbons
Năm 1973, Molina cùng nhóm của Giáo sư Sherwood tiến hành các thí nghiệm hóa học về “nguyên tử nóng”. Dự án này sau đó đã dẫn đến việc thành lập một nhóm nghiên cứu chlorofluorocarbons, loại khí trung tính được sử dụng trong sản xuất bọt, bình xịt và chất làm lạnh.
Molina, cùng với Giáo sư Rowland, đã chuẩn bị một báo cáo lý thuyết về sự phá hủy tầng ozone của khí quyển bởi chlorofluorocarbons. Nó dựa trên việc sử dụng thông tin được chấp nhận chung về thành phần hóa học của ozone trong điều kiện khí quyển. Mô hình máy tính cũng được sử dụng cho việc này.
Mục tiêu ban đầu của thí nghiệm là xác định một phương pháp có thể xác định sự phân hủy phân tử của chlorofluorocarbons trong các lớp khác nhau của khí quyển. Hơn nữa, người ta biết rõ rằng ở các tầng khí quyển thấp hơn, các khí này trơ.
Kết quả của nhiều nghiên cứu, mô hình sau đã được phát hiện – khi chlorofluorocarbon đi vào khí quyển không phân hủy thành các phân tử do bất kỳ quá trình hóa học nào, chúng chắc chắn sẽ bay lên các tầng trên của khí quyển, nơi có các điều kiện đặc trưng riêng.
Các tầng bình lưu cao nhất thường xuyên phải chịu tác động tiêu cực của tia cực tím từ mặt trời. Tầng ozone mỏng nhất, nằm ở trên cùng của tầng bình lưu, thực hiện các chức năng bảo vệ so với các tầng khí quyển thấp hơn khỏi bức xạ nguy hiểm từ mặt trời.
Molina cho rằng các photon UV phá hủy cấu trúc phân tử oxy cũng có thể phá hủy chlorofluorocarbons, giải phóng nhiều sản phẩm có hại vào khí quyển, trong đó có phân tử clo (CL). Clo được tạo thành từ các nguyên tử gốc nên nó có thể phản ứng với các nguyên tử ozone (O).
Tạp chí Nature đã xuất bản một bài báo vào năm 1974 của Molina và Rowland, trong đó cho rằng chlorofluorocarbons gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với tầng ozone tầng bình lưu. Lập luận chính cho yếu tố này là kết quả của nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, họ còn cung cấp một báo cáo dài 150 trang và triệu tập một cuộc họp báo ở Hoa Kỳ kêu gọi cấm hoàn toàn việc phát thải chlorofluorocarbons vào môi trường. Kết quả là đã thu hút được sự chú ý của cộng đồng thế giới.
Trong những năm đó, chlorofluorocarbons được sử dụng rộng rãi để sản xuất chất làm lạnh, bình xịt và chất đẩy.
Báo cáo của Molina và Rowland bắt đầu bị các nhà sản xuất hóa chất tranh cãi. Tuy nhiên, sự đồng thuận rộng rãi của công chúng về vấn đề này chỉ được hình thành vào năm 1976 nhờ báo cáo được công bố của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia.
Lập luận của Moline và Rowland cũng được ủng hộ một cách chi tiết nhất có thể bằng cách hỗ trợ bằng chứng về sự suy giảm tầng ozone tầng bình lưu ở Nam Cực. Báo cáo này được công bố trên tạp chí Nature (1985).
Do sự ra đời của giao thức này, lượng chlorofluorocarbons thải vào khí quyển đã giảm đáng kể. Đồng thời, tốc độ biến đổi khí hậu và sự phá hủy tầng ozone trong khí quyển đã chậm lại. Với công trình nghiên cứu này, Molina đã được trao giải Nobel cùng với Rowland và Crutzen (1995).
Năm 1985, nhà khoa học Joseph Farman đã xác định được một lỗ hổng trên tầng ozone khí quyển ở Nam Cực. Vì vậy, các nhà khoa học quyết định thành lập một đoàn thám hiểm để khám phá nguyên nhân khiến tầng ozone bị suy giảm nhanh chóng ở khu vực này. Mario Molina được bổ nhiệm làm người đứng đầu dự án này.
Kết quả là người ta phát hiện ra rằng các điều kiện trong tầng bình lưu ở Nam Cực thích hợp cho việc kích hoạt clo làm chất xúc tác phá hủy tầng ozone.
Giải thưởng và danh hiệu danh dự
Mario Molina đã nhận được rất nhiều giải thưởng, giải thưởng và danh hiệu danh dự trong suốt cuộc đời mình:
- 1960 – tiểu hành tinh được đặt tên để vinh danh Mario Molina.
- 1965 – nhận bằng cử nhân về kỹ thuật hóa học của Đại học Quốc gia Mexico.
- 1987 – nhận được Giải thưởng Esselen từ Hiệp hội các nhà khoa học hóa học Hoa Kỳ.
- 1988 – được trao Giải thưởng Cleveland của Hiệp hội Phát triển Khoa học Hoa Kỳ.
- 1989 – Global 500 được trao giải thưởng cho những thành tựu cao nhất trong lĩnh vực khoa học thế giới.
- 1990 – nhận được khoản tài trợ trị giá 150 nghìn đô la từ Quỹ từ thiện Pew cho các dịch vụ trong lĩnh vực môi trường và bảo vệ môi trường.
- 1993 – thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ.
- 1995 – được trao giải Nobel Hóa học cùng với F. Sherwood Rowland và Paul J. Crutzen vì phát hiện ra lý thuyết về tác động phá hủy của chlorofluorocarbons lên tầng ozone.
- 1996 – được trao giải “Đĩa vàng” của Học viện Thành tựu Hoa Kỳ.
- 1996 – thành viên của Viện Y học Hoa Kỳ.
- 1998 – được trao Giải thưởng Gibbs đặc biệt từ Hiệp hội các nhà hóa học Chicago cho những thành tựu cao về công nghệ khoa học và sinh thái.
- 2003 – tổ chức Molina được trao giải thưởng thường niên trong lĩnh vực nghiên cứu môi trường.
- 2003 – thành viên của Đại học Quốc gia Mexico.
- 2007 – thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ.
- 2007 – thành viên trong tổ chức các triết gia Hoa Kỳ và viện hàn lâm khoa học Mexico.
- 2014 – thành viên của Hiệp hội vì sự tiến bộ khoa học của Hoa Kỳ, đồng chủ trì dự án AAAS về nghiên cứu biến đổi khí hậu.
- 2013 – được Tổng thống Mỹ Barack Obama trao tặng Huân chương Tự do.
Bằng danh dự
1996-2004:
- Đại học Quốc gia (Mexico).
- Đại học Châu Âu (Anh).
- Đại học Yale
- Đại học Canada (Calgary).
- Đại học Hoa Kỳ (Connecticut).
- Các trường đại học Hoa Kỳ (Miami và Trinity).
- Đại học bang Mexico (Hidalgo).
- Đại học Quốc tế Hoa Kỳ Florida.
- Đại học Canada (Waterloo).
- Đại học Tufts
- Đại học Liên bang Mexico (Metropolitan).
2005-2015:
- Đại học Hoa Kỳ (Nam Florida).
- Đại học Bang Mexico (Bang Mexico).
- Đại học Liên bang Mexico (Chapingo).
- Đại học Duke.
- Viện Bách khoa Quốc gia Mexico.
- Đại học bang Mexico (Michoacan).
- Đại học Châu Âu Alfonso X.
- Đại học bang Mexico (Guadalajara).
- Đại học Châu Âu Free Brussels
- Đại học bang Mexico (San Luis Potosi).
- Đại học Canada (British Columbia).
- Đại học Harvard, Cao đẳng Hoa Kỳ (Whittier).
- Đại học Complutense (Madrid).
- Đại học Hoa Kỳ (Tốt nghiệp Claremont).
- Đại học Hoa Kỳ (Williams).
Đời sống cá nhân
Người vợ đầu tiên của Mario Molina là Louise Y. Tan. Cô ấy cũng là một nhà hóa học. Sự quen biết của họ xảy ra khi Molina đang làm luận văn khi theo học tại Đại học California ở Berkeley.
Họ kết hôn vào năm 1973. Sau một thời gian, cặp đôi quyết định chuyển đến sống ở thành phố Irvine. Bốn năm sau, con trai Felipe của họ chào đời. Tuy nhiên, vào năm 2000, Louise và Mario ly hôn.
Louise dành cả cuộc đời mình làm nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường Molino.
Năm 2006, Mario Molina kết hôn lần thứ hai. Vợ ông là Guadalupe Alvarez.